Thứ Hai, 1 tháng 4, 2013

Câu chuyện đại chiến


Top of



 
 
                                                         
                                              Câu chuyện đại chiến
 
 
 
 
                        Vào ngày thứ tư, rạp chiếu phim giảm giá 50% cho sinh viên.
                         Anh thông báo: xem lại Xích Bích.
                         Dù là đã thuộc từng hình, từng câu thoại hay âm thanh ấn tượng của Xích Bích, tôi vẫn sáng mắt, gật đầu, hỏi: “Mình đi với ai”? Anh cười: “Ít nhất là hai đứa. Nhiều là bốn”. Câu sau cùng, anh nói khi chạy phầm phập lên gác. Sàn nhà gỗ bắt đầu rung khẽ vì âm bass phát ra trên phòng anh trai.
                        Phòng tôi tầng dưới. Anh ở trên, cách nhau cái sàn gỗ. Tôi làm gì ở phòng mình, anh không biết. Nhưng anh làm gì bên trên, tôi có thể đoán được đúng bảy mươi phần trăm. Phòng tôi có sáu cái bể cá. Bốn bể nước ngọt, hai bể nước mặn. Để chúng vào chung căn phòng mười lăm mét vuông thật bất tiện. Không chỉ có quá nhiều hơi ẩm trong không khí, quá nhiều tiếng ồn của máy lọc, máy sủi tạo ô xi, tiếng nước chảy qua bộ lọc xối ngược xuống triền miên đều có thể chịu được do quen tai, mà gay go là chế độ sống của những con cá đế vương đó hoàn toàn khác nhau về thời tiết. Cá biển ưa lạnh. Cá nước ngọt ưa nóng. Mùa đông, lúc những Nemo... sung sướng vẫy vùng và béo tròn từng ngày thì La Hán hay Rồng ẹo ẹo vì lạnh. Ngược lại, mùa hè đến, bọn La Hán phổng phao bao nhiêu thì Nemo... lại lừ đừ bấy nhiêu. Biết thế, nhưng tôi luôn hào hứng với việc mình được thừa kế tất cả những gì từng là niềm vui, từng là tình yêu của anh trai mình. Và phải giải quyết một cách hiệu quả nhất, theo sự chỉ đạo một lần vô cùng tận tụy của anh. “Với cá nước mặn, mùa hè nóng, nếu không bật máy lạnh, chú lấy mấy chai nước lã cho vào ngăn đá, thành những chai đá, rồi thả vào bể nước mặn cho cá mát” hay “Mùa đông, khi nào nhiệt độ ngoài trời xuống dưới mười lăm độ, thì chú cắm cái sưởi này cho cá rồng. Để hai mươi bảy độ là tự ngắt điện. Lạnh là ngoẻo đấy”.
                      Tôi từ lâu tự nhận biệt danh cho mình là Lười. Ngày nhỏ, mẹ nói: “Con lười tắm quá, không béo được đâu”, hay “đến ăn mà cũng không buồn nhai, sau làm sao thành chủ gia đình đây?” Rồi bố: “Sao không đi đá bóng với bọn ở lớp? Ngày xưa, bằng tuổi con, bố đá bóng ở tất cả các bãi cỏ khu Hoàn Kiếm, hay bãi sông Hồng”. Anh thì: “Chú mà một tuần mới gội đầu một lần, rụng hết cả tóc đấy”. Lâu dần, tôi đâm yêu quý chữ Lười như thể nó là một phần thân thể. Khi mọi người quên cái tên thân thương đã theo tôi bao tháng ngày, tôi tự nhắc nó bằng cách cố tình không làm một việc gì đấy, để có cớ nhờ mẹ, nhờ anh, rồi tự nhận:
                         “Không biết con là thằng lười à?”
*
                        Tôi tiếp nhận tất cả những gì anh bàn giao, không đắn đo, bởi tôi vốn không thiết nghĩ nhiều về một chuyện gì đó. Cụ thể là: sáu cái bể cá. Hai con chó nửa tây nửa ta, bốn con mèo, một con rùa... và khoảng bảy chị: bạn gái, người yêu rồi, đang định yêu rồi bỏ... của anh trai. Anh năm nay 25. Còn tôi 16.
                      Thật sự thì với một thằng nhóc 16 tuổi, khi nuôi tất cả những con vật mà anh bất thình lình mê mẩn thích, mang về chăm sóc như với con đẻ trong khoảng thời gian sáu tháng rồi chán, là việc không khó. Sáu bể cá xếp vòng quanh giường ngủ. Cá nào có thức ăn của cá đó. Ngoài những ngày ăn đồ hộp là viên bột tổng hợp bán sẵn phòng đói bụng giống mỳ tôm, phở ăn liền của người, là những bữa ăn tươi mấy nghìn tép sống nhảy tanh tách ngoài chợ mà mỗi khi tôi thả chúng xuống, lũ cá như biểu diễn thời trang, múa rất dẻo với món ăn khoái cảm. Đấy là cá. Còn chó và mèo sinh sống ở phòng chung. Chó ăn chung bát với mèo. Hai con chó lần lượt được anh bỏ vào túi áo khoác mang về. Ban đầu, các em nhỉnh hơn cái ấm pha trà, lông xù, chân ngắn, bụng chạm đất và rõ ràng là giống chó Tây như anh trai xác nhận. Nhưng chỉ một tháng sau, với tình cảm quá khích và cách chăm sóc đặc biệt của anh, chúng đã từng bước khẳng định mình chính là chó ta có đá qua lai Tây một tẹo rất ít. Chân cao, lưng dài ngoằng, và sủa ông ổng về đêm khi có cái lá rụng hay lũ chuột chạy đuổi, chửi nhau chí chóe. Đôi khi khu phố có trộm, thì chó ta bỗng nổi gien lành như chó Tây, vẫy đuôi mừng, không kêu một tiếng. Hết nhiệm kỳ được sủng ái của chó, thì sang mèo cho dù chó vẫn lừng lững hiên ngang đi lại quanh nhà. Mèo dễ chịu hơn chó, biết làm người ta yêu mình nhiều hơn bởi cách làm duyên. Ngoẹo đầu ngủ vắt vẻo nơi cầu thang, hay dang bốn chân, phơi bụng tênh hênh tô hô giữa đường với một cái mặt tròn xinh đẹp.
                        Trong suốt những quá trình nhập hộ khẩu nhà tôi của các loài thú cưng, là hình ảnh các chị. Tôi gặp cụ thể bảy chị trong vòng bốn năm (tôi nhớ những chị này vì họ đều đến nhà “Chào Tí, chị mua cho Tí chè thập cẩm này”. Một chị nghiện trứng chim cút lộn, thì bao giờ cũng một bịch chị, một bịch em... hay những đặc sản của quê từng chị xếp la liệt góc bếp như măng muối Lạng Sơn, măng khô Tuyên Quang, hồng Đà Lạt...). Và bảy chị đó, từ chỗ không biết nhau, rồi biết, rồi ghét, nói xấu, ghen tuông nưng có một tình cảm đồng nhất của cả bảy người là đều coi thằng lười tôi là em trai yêu quý.
                       Anh trai rầm rầm chạy xuống. Quần bò trễ cạp, thấy rõ từng cuộn lông bụng nâu óng mềm. Râu quai nón, mắt đen, lông mày rậm và tóc hung “Chú, anh gọi điện rồi, đi với ba đứa”. “Là ba chị nào”. “Mèo, Bột và Con Con”. “Cái gì? Ba chị đấy không thích nhau lắm đâu”. Tôi rùng mình. Lập tức một hình ảnh như trong phim chạy qua, là chị Mai và Hương cao như nhau, khoảng mét bảy mươi, tóc người dài người ngắn, ai trông thấy mắt cũng dừng lại một lúc. Riêng chị Thúy bé xíu. Anh nói chị Thúy may, vì cao một mét bốn sáu, thoát được luật cấm đi xe máy vì thừa quy định một cm. Anh gọi các chị bằng biệt danh: Hương mèo vì chị cho mấy con mèo, Mai bột vì da ngăm đen, lúc nào cũng như vừa đi tắm nắng về và Thúy con con. Tuy cao thấp khác nhau nhưng ai cũng xinh. Lườm nhau cũng khiếp. “Không thích cũng phải thích”. Anh phẩy tay. “Chú chuẩn bị đi, anh chở chú”.
“Thế các chị kia đâu?” “ Tự đến thẳng rạp rồi”.
                    Ngồi sau xe máy, đầu óc thằng tôi bắt đầu hoạt động. Các tình huống đặt ra: đi xem phim, là thưởng thức bộ phim. Với anh và mình, chắc chắn là như vậy. Nhưng với ba chị kia sẽ không tâm trí tập trung xem phim mà là xem nhau. Khi xem nhau với một tâm trạng ghen ghét, đố kỵ, sẽ chỉ thấy cái xấu, và sinh nói xấu khích bác nhau... Tóm lại, là một đại chiến. Tại sao anh lại làm thế nhỉ? Mà rắc rối thế này, anh lôi tôi vào làm gì?
                  Rạp chiếu hiện đại. Bước vào như vào thế giới khác. Tôi không giấu được căng thẳng. Anh quay sang, đấm cái thụp vào lưng, cười trắng lóa: “Chú lại tâm trạng rồi. Vô tư đi, không đánh nhau đâu”. Thằng tôi cười nhạt hoét. Xích Bích xem đã ba lần. Rồi nghe bác nhà báo Yên Ba phân tích trên VTC mấy lần, thấm thía hay. Nhưng chuyện đồng ý đi lần bốn để xem Xích
                  Bích do cái tính lười nói câu từ chối, là sai lầm. Thở dài cái sượt, đi tiếp. Nếu không lười, thì lúc này vẫn có thể làm khác chứ không nhắm mắt đưa chân trước bất cứ một việc gì, ví dụ là việc này.

 
 
                   Lâu lắm về sau, tôi vẫn nhớ cảm giác tối hôm ấy. Xích Bích lần bốn không như ba lần Xích Bích trước. Dù âm thanh lập thể chạy vòng quanh người với bao hiệu quả công nghệ hiện đại vẫn không xóa được cảm giác hình như các chị ấy đang gườm nhau. Dao kiếm chém nhau tóe lửa cũng không kéo tâm trí thằng tôi tập trung nổi mười phút vì những chuyện có thể xảy ra như nói khích nhau, thậm chí cãi nhau, biết đâu trong bóng tối, không ai thấy ai, mèo và con con giật tóc, cấu véo nhau? Anh trai nhìn thẳng màn ảnh, không hiểu sao biết tôi lo toan. Lại hành động vỗ lưng quen thuộc, anh thì thào: “Về không? Cà phê?”. Tôi thở dài. Im lặng. Anh lại nói: “Xem phim như chú, hỏng hết bánh kẹo. Về đi, cho hết căng thẳng”.
                 Còn ba chị kìa?” “Đến được, về được. Không đánh nhau đâu, đừng lo. Chú, cà phê quán nào?”. Thằng lười trả lời: “Quán gần nhà mình”.
                 Đấy cũng là tối đầu tiên tôi nốc ba cốc cà phê đá. Mây Tím có từ mười năm, nằm ở ngã ba đường, hoành tráng nhất khu vực. Chỉ cần đi bộ vài bước là về đến nhà nên tôi hay được mẹ rủ ra ngồi ăn uống linh tinh vào những ngày nghỉ. Lần nào thấy tôi đứng ở cửa, bác quản lý cũng nháy mắt, và lặng lẽ chuyển mấy cái ghế, một cái bàn ra ngoài trời cho vị khách quen đặc biệt thích ngồi duỗi chân nhìn đường phố. Lần này cũng vậy. Hai anh em ngồi nhìn hai hướng. Trên cái bàn gỗ, la liệt cốc. Ca tối, những người trực khác, nhưng cũng quen. Một anh cười: “Hai anh em tâm trạng nhỉ? Trà đá không?” Anh tôi gật. Anh phục vụ lại đưa đẩy: “Lâu không gặp Đông, có vẻ béo lên đấy”. Anh trai chỉ cười gật gật.
                 Tôi khoái nhất là ngồi duỗi thẳng chân, tựa lưng vào ghế và nhìn sâu vào khoảng tối phía xa. Nhìn thật lâu, càng hút mắt không muốn quay đi. Lần nào xuống quán với mẹ, tôi đều nghe mẹ phân tích về cách sống của những người phục vụ trong Mây Tím: “Họ rất chăm chỉ, tập trung. Sáng ra năm giờ mở cửa hàng, mười hai giờ đêm đóng cửa. Ai cũng phải có một cái nghề, và niềm đam mê. Nhưng thành hay bại, là do chăm. Mẹ thấy con phải xem lại, nếu lười thế này, không hiểu sau sẽ làm việc gì?”.
                    Giữa hai anh em, là những cốc trà đá. Anh nhìn vào quán, bâng quơ: “Không biết những người này định ở đây đến bao giờ. Bao lâu nữa thì làm việc khác? Suốt đời làm một cái việc mở cửa cho khách, bưng nước, lau bàn, rồi đóng cửa, không chán nhỉ?”. Tôi vắt lại hai cái chân theo hướng khác, thở dài: “Họ là những người chăm chỉ. Không lười như em”. Anh lắc đầu: “Anh đi khắp nơi, về đây, ba năm trước với ba năm sau, thấy khác mỗi cái đèn nhấp nháy và thêm cái máy pha capuchino. Thế mà cũng sống được”.
                   Điện thoại anh có tin nhắn liên tục. Anh đọc, nhìn tôi, cười: “Ba đứa đang đi ăn xoài dầm ở Nhà thờ” Tôi thở dài. Dù sao cũng xong một buổi tối lành lặn không thương tích. Anh cười: “Mai lại mất một chầu kem ngồi giải thích Xích Bích cho các bà ấy nghe. Chắc tối nay chẳng đứa nào tâm trí mà xem”.
                  Bỗng nhiên, tôi nhớ bác Yên Ba. Cũng là từ chữ lười, mẹ nói: “Bác ấy đôi khi cũng lười. Đi ăn cùng bạn bè, bác ấy chỉ ngồi. Mẹ hỏi, sao không ăn. Bác nói chỉ ăn những con gì không còn xương. Và khi bữa ăn kết thúc, kết thúc cả tráng miệng với trái cây hay kem, mẹ phát hiện trước mặt bác ấy hãy còn một chén nước mắm. Nhưng bác chỉ lười những chuyện kiểu như thế. Còn lại, là sống hết mình với những đam mê. Ví dụ sưu tập sách cổ. Sưu tập Tam Quốc. Khi biết ở đâu có cuốn sách quý, bác ấy sẵn sàng đi hàng trăm cây số, xuyên ngày xuyên đêm để mua nó”.
                   Lần đầu tiên, tôi có một đêm trắng rất dài vật vã cho đến sáng trong tiếng rập rập âm bass trên phòng anh, xuyên qua những tấm lót sàn gỗ. Mọi chuyện chạy qua trong đầu như một cuốn phim. Cũng khoái, nhất là với thằng lười, khi mà nằm trong bóng tối với một đôi mắt mở thao láo, thấy rõ mình đang nhấm nháp những thước phim tự chiếu cho một mình mình xem.
                    Tất cả thật bí mật.
*
                      Bây giờ.
                      Tôi hai mươi, học kinh tế ở Malmo, Thụy Điển. Điều mà không ai tưởng tượng và tin nổi với một thằng nhóc lười đã làm được. Tôi giống cái lá, nằm trên một dòng nước lặng, từ từ trôi, phong cách cố hữu của mình, rồi thế nào đấy thì đã ở rất xa nơi chốn thân quen. Anh trai gọi điện: “Chú. Anh lấy vợ”. “Chị nào? Con con hay mèo?” “Chú còn nhớ chị Hường không?” “Chị cho anh con Tũn á?” Lâu lắm rồi, tôi mới gào to như vậy. “Ừ”.
                     Lúc này. Tôi đang đứng dưới một cái mái hiên hình chóp. Nắng hắt vàng ngoài xa, thấy rõ những con sóc nhỏ nhảy tưng tưng dưới đất rồi ôm cái thân cây già trèo thoăn thoắt. Vài đứa trẻ tóc vàng lăn lộn trên bãi cỏ công viên nắng rung rinh qua những cái lá non trong vắt.
                     Chị Hường có một cái máy trợ tim trong ngực. Có lần, chị nắm tay tôi, mắt to sáng rực, hồn nhiên đặt lên chỗ trái tim rất gần nơi nhạy cảm, tỉnh bơ, như thể tôi không phải là một thằng nhóc đã mười sáu, cũng đã biết thích cô này cô nọ và lén lút xem những cảnh nóng thỉnh thoảng có trong những bộ phim cấm trẻ em dưới mười tám: “Tí thấy không. Máy đang chạy đấy. Em áp tai vào đây, nghe tiếng rò rò không?” Tôi chỉ để tay chứ không dám áp tai vào nơi ấy của chị, giọng bỗng khàn: “Không có cách nào khác ạ?” “May còn có nó đấy, không thì chị đã bay vút lên trời”.
                      Trong số những chị đến nhà tôi, chị Hường chỉ là bạn rất vu vơ, chưa bao giờ thuộc top được anh đặt biệt danh. “Sao lại là chị Hường?” Anh hỏi lại: “Tại sao không phải chị ấy?” “Nhưng... chị ấy bị bệnh tim rất nặng?”
“Chính thế, nếu không, ai lấy chị ấy?”
*
                         Tôi không nhớ mình đã ngồi ngoài công viên bao nhiêu giờ. Từ lúc nắng vàng, tới khi tất cả chuyển xám. Chạy dọc theo bãi cỏ, là một dòng sông nhỏ. Chiều đến, từng đàn bồ câu to như vịt trời bay về, đậu trên những mái nhà cổ mốc rêu ngóng tìm ông lang thang mang đồ ăn tới. Ông già cao, lưng gù, râu ria che hết miệng, thường đạp xe, chở hai cái bao, trong ấy là những đồ thừa nhặt từ các quán ăn hay thùng rác công cộng. Lặng lẽ mở túi vải ném đồ ăn xuống triền dốc cỏ xuôi xuống dòng nước, rồi ông ngồi bệt xuống cỏ. Lũ chim gào thét thảm thiết lao như những mũi tên xuống cướp đám thức ăn đủ loại, nhảy tưng tưng rồi bay tiếp. Có vẻ như họ quen nhau đã lâu, nên chúng nhận thấy ông đến từ xa.
                         Hôm ra sân bay tiễn tôi, vẫn động tác đập lưng quen thuộc: “Ê Lười, anh sẽ tiếp quản cơ ngơi của chú. Nhà bây giờ, thằng Lười sẽ là anh”. “Tất cả là của anh mà. Chó, mèo, cá, rùa... đều của anh mang về đấy chứ có phải em đâu. Nhưng Lười là thương hiệu của em, anh không lấy được”. Anh cười, đấm mạnh vào vai tôi một đấm thay câu chào rồi quay đi. Dáng người chắc nịch, da ngăm đen và mái tóc hung hung lẫn dần vào đám đông phía xa, không một lần ngoảnh lại để biết là tôi cứ đứng, nhìn theo mãi.
*
                     Đến tận lúc này, khi đã đi rất xa khỏi nơi chốn của mình, chân lại duỗi dài khoái cảm, tôi nằm ra bãi cỏ lúc nào không biết. Tôi đã từng nghĩ sẽ không đi đâu khỏi ngôi nhà sàn gỗ với cơ man các con vật. Cũng nghĩ, chỉ dưới mái nhà mình, mới có bình yên. Lại càng tin, là anh sẽ luôn làm những điều anh muốn, rồi đến một ngày, anh là người đi nước ngoài và sẽ yêu say mê phụ nữ. Các chị ấy đủ loại màu da, mái tóc với những biệt danh riêng.
                     Tại sao phải đi rất xa như thế này, nằm dài trên một bãi cỏ vào một ngày cuối Thu, sau bao nhiêu năm, tôi mới nghĩ về anh mình, và cách mà anh ứng xử với cuộc đời này. Và người đi ra khỏi nhà lại là tôi.
                     Tôi muốn nằm thế này thật lâu, dù da mặt tê buốt khi bóng tối bao trùm. Tôi thích nghe tiếng bồ câu kêu. Tiếng chuông xe đạp của mấy thanh niên phóng ào qua một ngã tư. Tiếng những chiếc lá cây khô bắt đầu rụng khi một mùa đang qua.
 
 
Bottom of Form
 

 

 

Thứ Tư, 27 tháng 3, 2013

VỀ THÀNH PHỐ ĐI VẮNG

có cái gì đó như bất nhẫn trong ngòi bút miêu tả đôi lúc đến lạnh lùng của nhà văn trong truyện ngắn lấy làm tựa sách. Nhưng nhờ vậy, người đọc thấy thấm thía. Phố đông nhưng người phố cô đơn.


Cuộc sống với những xáo trộn, mất mát và bất an. Đô thị hiện đại, trẻ trung, năng động nhưng chất chứa trong lòng nó một khuôn mặt thời gian bị bôi xóa bởi những lãng quên, bị vùi lấp trong chậm rãi ngưng đọng, bị đe dọa bằng những gam màu loang của sự hủy diệt những giá trị. Thành phố đi vắng là chuyện về những đôi mắt người như đang ở lưng chừng giữa sự sống và cái chết, tồn tại nhưng không thật sự hiện hữu. Mà lựa chọn nào cũng hằn lại những khoảng trống đến hoang mang.


Tôi vẫn rất nhớ Nguyễn Thị Thu Huệ từ truyện ngắn Hậu thiên đường. Mà từ thời ấy đến bây giờ đã tròm trèm gần 2 thập kỷ. Một lớp độc giả trẻ cũng có lẽ cũng đã được thay mới.
Với Thành phố đi vắng lần này, tôi lại thấy tính cảnh báo trong từng câu chuyện của chị. Những nhân vật “run rẩy” đi trong chiều dài, và cả chiều sâu cuộc sống nhưng không ai định hình được con đường sẽ dẫn về đâu. Không một ai. Những định hướng hoang mang, mục tiêu sống cũng chìm khuất trong cái nhộn nhịp nhưng bức bối. Khái niệm hiểu thấu và chia sẻ trở thành điều xa xỉ. Có cái gì đó như bất nhẫn trong ngòi bút miêu tả đôi lúc đến lạnh lùng của nhà văn trong truyện ngắn lấy làm tựa sách, nhưng cũng chính nhờ vậy mà người đọc thấy thấm thía. Phố đông nhưng người phố cô đơn.
Tôi nhớ gia đình nhà Tân - Luyến với thằng con Thái Dương trong truyện Sống gửi thác về. Cuộc sống của gia đình này chậm rãi từng chi tiết đến mức người đọc phải tự hỏi rằng rồi thì mọi thứ trong cuộc sống cuối cùng sẽ ngày qua ngày với những vòng quay trở đi trở lại của sự việc, lời nói vậy sao? Nhưng rồi Luyến bị ung thư gan. Cái chết của người vốn sinh ra làm ngọn lửa giữ ấm cho gia đình không ai lường trước được như một điểm thắt trên chiếc đồng hồ cát để rồi mọi thứ hoàn toàn đảo lộn trong cuộc sống của “hai thằng đàn ông trong nhà” - một lớn một bé mà nếu chỉ nghe cách xưng hô thì không biết ai là cha ai là con. Một sự thiếu vắng hẫng hụt đến tội nghiệp. Mà cũng chỉ khi điều thân quen mất đi, người ta mới kịp giật mình nhận ra rằng hôm nay còn đây, thì biết mà thương mà lo cho nhau đi, ai biết ngày mai…
Tôi nhớ Của cha, của Con và Cành vạn niên thanh. Cuộc sống của “gà trống nuôi con” ngày qua ngày chen lấn trong cái bí mật về sự ra đi của người mẹ - mà mãi khi đứa con thiếu vắng tình thương lớn lên mới hiểu được lỗi lầm đó là của cha. Sự phản bội không thể tha thứ đã làm tan vỡ một gia đình lẽ ra là đã rất hạnh phúc. Rồi Cha, trong cuộc mưu sinh đã bỏ quên con gái mỗi ngày phải chứng kiến cảnh vợ chồng nhà hàng xóm “yêu” nhau để rồi nó cũng bước chân vào cuộc “khám phá” thế giới của người lớn. Chính vào lúc con trượt ngã, Cha vì cứu người mà nhận lấy những vết chém từ bọn giang hồ. Nỗi đau nào là lớn nhất trong cuộc đời của Cha, của Con hay tất cả cũng chỉ là những mảnh ghép rời rã như cách cha đã gắn lá giả cho những cành vạn niên thanh?
Tôi nhớ những lời lẩm nhẩm sau cùng của anh chàng tiến sĩ trong Coi như không biết. Mấy chục năm vợ chồng hạnh phúc, ròng rã cả tuổi trẻ đua theo những học hàm học vị để rồi bị tâm thần, chỉ nhắc đến số tiền 35 triệu đồng và cô cave. Số tiền không lớn nhưng đủ giết chết một con người. 3 ngày được yêu thương và chia sẻ đủ khiến một con người hóa điên khi ngọn nguồn yêu thương ấy mãi mãi mất đi. Trước cái chết và những ranh giới của sự tồn tại, khái niệm cave cũng không còn quan trọng, mà chỉ có tình yêu thật sự là tồn tại mãi mãi.
Tôi nhớ cả những câu nói của các nhân vật, những dòng cuối để lý giải hoặc đơn giản là để kết thúc cho một khuôn truyện đủ sức làm nhói lòng người đọc. “Đừng bao giờ để anh một mình - Ừ, đừng bao giờ…”, “Em không bỏ anh, em đi vì có còn anh nữa đâu”, “Mảnh giấy báo nơi ở thường trú của cô: Khu 29, Lô E, số mộ 435, nghĩa trang Bình yên”…
Thành phố của nhà văn, cuộc sống chảy chậm rãi trong từng mái nhà, ngõ hẻm; và cũng như miền trầm tích giữ lại từng vết loang của mất mát, của những nhầm lẫn và sợ hãi, của những cuộc đi, của những chuyến về… Thành phố đi vắng. “Không còn sự lộn xộn của đời sống thị dân bao đời vẫn thế. Phố vẫn dài, giờ thêm lạnh. Ngày cuối tuần thành phố như đông máu. Vô cảm, dửng dưng. Thật là khi phát hiện ra đời sống của một nơi chốn lại có thể tác động tới cảm xúc của mình đến thế. Xe miên miết trôi. Người miên miết đi”…
Tập truyện khiến người đọc đôi lúc phải chùng lòng, nghĩ về những mải miết lao chen trong cuộc sống ở thời đại của bất an và đầy tổn thương này. Một lời cảnh báo cần thiết - để người phải đi tìm người, tìm lại chính mình - ngay cả khi phía sau có là những tiếng thở dài…
Tiểu Quyên

NGƯỜI ĐẸP VIẾT VĂN


Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ.
"Với tôi, văn chương chưa bao giờ là những điều thần bí, chỉ đơn giản đó là một phần của cuộc sống mà những ai đã trót mang nặng kiếp người đều lấy đó để cất bớt đi gánh nặng đa mang", nữ nhà văn bộc bạch.

Công việc viết văn thuộc về thế giới tâm linh, đòi hỏi phải có sự hết mình. Bởi thế, khó khăn lớn nhất của tôi mỗi khi ngồi vào bàn viết chính là sự phân tâm. Phụ nữ viết văn không phải chuyện đơn giản, bởi bên cạnh còn biết bao chức phận khác. Làm con đối với mẹ, làm mẹ đối với con, chỉ riêng hai điều đó cũng đủ để tôi bù đầu cả ngày. Nếu trong gia đình, người bố viết văn, thì ngay tức khắc công việc đó mới thiêng liêng làm sao. Nếu là đêm mùa hè, người vợ sẽ lặng lẽ đặt lên bàn một cốc nước mát, rồi suỵt lũ trẻ không được làm ồn "để yên cho bố làm việc". Còn người mẹ viết văn như tôi, liệu có thể từ chối con mình khi chúng đến nắm áo vòi vĩnh, trong lúc đang say sưa với những ý tưởng văn chương sáng tạo. Chính vì sự phân tâm ấy mà tôi luôn bị giằng xé giữa những khái niệm hết mình. Hết mình với văn chương hay hết mình với chức phận người phụ nữ trong gia đình? Nhưng cũng có lẽ nhờ điều này mà tôi mới viết nên nhiều mảng đời với những sinh hoạt bình dị của đời sống con người.

Khoảng trời trong văn của tôi gói gọn trong cuộc đời các nhân vật. Những người con gái háo hức bước chân vào tình yêu, những người đàn bà sống với ngổn ngang trăm mối tơ vò trong bi kịch tâm hồn không lối thoát. Họ là những con người của thời hiện đại, của những năm tháng mà lối sống bản năng, những khát vọng hướng thiện, hạnh phúc, khổ đau đôi khi chỉ chênh nhau mỏng manh như sợi tóc. Nếu văn chương nói vấn đề thời đại mà chất văn không có, tác phẩm sẽ mang tính ký sự. Ngược lại, văn chương điệu đà quá, sẽ giống như một nồi nước phở không có xương hầm, chỉ có vị phở, váng mỡ, cũng chỉ đánh lừa người ăn một bát mà thôi.

Có một dạo, mọi người nhìn tôi như thể người "ưa gây gổ" khi tôi đưa vấn đề tác quyền văn học ra tranh cãi. Nhưng đó chẳng qua là chuyện không thể đừng. Ai đời tuyển truyện của tôi mà không thèm nói một câu, lỗi in sai be bét. Cái tôi cần không phải là lời xin lỗi hay nhuận bút, mà chỉ cần độc giả hiểu rằng văn chương Thu Huệ không phải chỉ vài ba truyện ngắn in đi in lại kiểu "quay vòng vốn" như vậy. Mỗi tập truyện ngắn của tôi khi in chung hay riêng, bao giờ tôi cũng đích thân cặm cụi sửa đến từng lỗi nhỏ. Tôi là người cẩn trọng và tương đối quyết đoán với các tác phẩm của mình.

Với tôi, những chuyến đi xa tìm để tìm cho nhân vật của mình một tính cách chỉ có được trong văn chương. Bởi với bao chức phận đời thường đang níu giữ, phải kiên gan đến đâu người ta mới dám lên đường.

(Theo Nông Thôn Ngày Nay)

NGÔN NGỮ ĐỘC THOẠI TRONG TRUYỆN NGẮN

Lê Na
Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ thường biểu thị cá tính mạnh mẽ, dám nhìn thẳng và nói thẳng, thông qua lời kể của nhân vật kể chuyện xưng “Tôi”. Trong bài viết này, tác giả Lộc Hoàng Lê Na phân lập và bình luận về yếu tố “độc thoại” đan cài hay tách biệt với dòng trần thuật của các truyện ngắn đó...
Truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ sử dụng ngôn ngữ độc thoại đời thường một cách phổ biến. Việc lựa chọn ngôn ngữ này xuất phát từ tư duy hướng vào đời tư, bám sát hiện thực đời sống. Nguyễn Thị Thu Huệ đã đưa vào tác phẩm của mình tiếng nói của đời sống thường nhật, dung nạp nhiều khẩu ngữ tự nhiên, làm độc giả không mấy khó khăn khi tiếp cận tác phẩm. Ngôn ngữ này dường như thô nhám, đôi khi suồng sã, bỗ bã, như: “Mặt mũi những thằng đàn ông suốt đời bị mất trộm” (Tình yêu ơi ở đâu); hoặc những câu nói từ thành ngữ: “nó ăn ốc, mình đổ vỏ. Ở đời chuyện ấy thường lắm” (Nước mắt đàn ông). Cũng có khi thứ ngôn ngữ này được diễn tả theo một chiều hướng khác bằng lối nói dân gian “lọt sàng thì xuống đất rồi chôn luôn, không có nia nào cả” (Thời gian của mỗi người). Lối nói suồng sã trong truyện ngắn của chị thể hiện rõ trong những dòng độc thoại nội tâm suy tư, chiêm nghiệm về cuộc đời và con người, thể hiện cách nghĩ của nhân vật về thời cuộc, về chính mình. Những dòng độc thoại nội tâm bằng lối nói dân gian khi suồng sã, có lúc bỗ bã đến không ngờ làm cho các nhân vật của chị như gai góc hơn, thực tế hơn, đôi khi là thực dụng về  đời với một tâm trạng buồn xa xôi và chua xót.
Dòng nội tâm của các nhân vật còn được thể hiện bằng những ngôn từ hiện đại, phóng túng, giàu hình tượng của đời sống kinh tế thị trường. Điều này làm cho ngôn ngữ của họ cập nhật hơn, mới mẻ hơn với cuộc sống hiện đại. “Bên B là chùm khế ngọt, bên A trèo hái mỗi ngày” (Nước mắt đàn ông). Đồng thời Nguyễn Thị Thu Huệ  còn có những dòng độc thoại nội tâm diễn đạt bằng phương ngữ rất đỗi nhẹ nhàng và duyên dáng. Lối diễn đạt này làm cho dòng nội tâm của nhân vật diễn ra tự nhiên hơn, không câu nệ vào ngôn từ hay cách diễn đạt của tác giả.
Đưa vào tác phẩm lối nói dung dị, sử dụng ngôn ngữ đời thường, cây bút nữ trẻ đã cố gắng rút ngắn khoảng cách giữa tác phẩm và độc giả. Tiếp xúc tác phẩm truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ tôi nhận thấy rõ ràng  tác giả này đã có những sự rút gần khoảng cách người kể chuyện và nhân vật, tác giả và bạn đọc. Với lối nói kiểu đời thường này, chị đã góp phần tái hiện chân thực bức tranh của đời sống với một gam màu lạ, thể hiện được sự đa dạng và sống động của cuộc sống.
Những tác giả  nữ thường có lợi thế trong việc diễn đạt sâu sắc nội tâm nhân vật nữ, trong việc bộc lộ đến tận cùng thái độ, cách cảm, cách nghĩ của giới mình. Sự khám phá thế giới tâm hồn người phụ nữ được Nguyễn Thị Thu Huệ thể hiện ở mọi phương diện, từ trạng thái đến tình cảm, những cung bậc của cảm xúc, niềm vui và nỗi buồn, những khát khao đam mê và cả những “gót chân Asin” của họ.
Công việc nội trợ hằng ngày gắn liền với người phụ nữ, cho nên trong những dòng suy nghĩ, dòng tâm tưởng của họ cũng có ít nhiều dấu vết. Nguyễn Thị Thu Hụê đã nhìn màn “đêm đen thẫm như một miếng thạch” (Cát đợi); ví liên khúc các bài hát như: “một xâu cá rô quẫy đạp liên hồi” (Cát đợi) và “những người đàn bà khác chạy qua đời tôi nhạt nhẽo như bí luộc” (Người đàn bà ám khói); hay những cảm nhận thú vị: “nhiều khi nó thấy ở mồm mẹ nó nói ra những câu đối thoại giống như một cái chợ bán cá thu nhỏ” (Phù thuỷ), “khuôn mặt méo xệch, vẹo vọ méo mó như cái oản bẹp” (Phù thuỷ).
Bằng trực giác và cảm nhận sâu sắc, chị viết nên những tâm sự của giới đàn bà, với những điều giản dị và không xa lạ với hầu hết phụ nữ. Những tâm sự, niềm vui nỗi buồn rất đàn bà được Nguyễn Thị Thu Huệ diễn tả tinh tế “Tôi mệt mỏi và thèm nói với anh những chuyện con con như em Thuý tập lẫy, chuyện nó đi tướt mọc răng” (Hình bóng cuộc đời)... Ngoài ra chị còn thành công ở diễn tả nội tâm của người phụ nữ lo về tuổi tác và nhan sắc: “Sao đến bên gương và nhìn thấy mình trong đó. Mí mắt sùm sụp, dưới mắt mòng mọng sưng, hai vành môi đã bắt đầu đen và lỗ chân lông trên mặt to ra như những đầu tăm” (Giai nhân). Có thể nói người đàn bà trong tác phẩm của Nguyễn Thị Thu Huệ luôn cảm nhận về “cái già đang ập đến” và ngôn từ miêu tả nỗi lo lắng này trong tâm trạng phụ nữ  của Nguyễn Thị Thu Huệ cũng khác biệt.
Cây bút nữ này đã thực sự làm người đọc xúc động với những trang viết về tình mẫu tử, diễn tả những cảm xúc xác thực của người đàn bà “thèm có con. Thèm được làm mẹ” (Người đàn bà ám khói); nỗi đau của người mẹ phải xa đứa con thân yêu “phải xa những gì lâu nay là máu thịt của chị. Xa đứa con trai bé bỏng thơm tho như một chiếc bánh ga tô vừa mới ra lò” (Tân cảng). Nỗi lòng của những bà mẹ có con gái lớn cũng được Nguyễn Thị Thu Huệ thể hiện rất đạt: “Mẹ bảo: lắm khi đang ngủ, tao giật mình không hiểu mày có lấy được chồng không. Nằm ngẩn một lúc, nhớ ra là mày đã có chồng, có con tao mừng không thể tưởng được” (Biển ấm).
Trời phú cho phái nữ trái tim nhạy cảm, suy nghĩ của họ thường mang màu sắc cảm tính, họ quan sát nắm bắt hiện thực bằng trực cảm… Khi đọc tác phẩm của Nguyễn Thị Thu Huệ chúng ta bắt gặp không biết bao nhiêu cặp từ “hình như” chảy qua những dòng độc thoại nội tâm rất phụ nữ, những do dự, những tâm trạng lo lắng. Xu hướng sử dụng với tần suất cao lớp từ đặc tả những khoảnh khắc của tâm trạng, bộc lộ lối cảm nhận  trực giác tạo nên sức ám gợi với người đọc, tôi nghĩ, rất đặc trưng cho người viết là phụ nữ.
Tái hiện hiện thực tâm lý qua độc thoại nội tâm bằng ngôn ngữ trực giác và linh cảm, cây bút truyện ngắn này đã bộc lộ khả năng nắm bắt những biến thái của tâm hồn con người, đặc biệt là phụ nữ. Đọc truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ người đọc cảm nhận đó là tiếng lòng của người phụ nữ viết nên từ những trải nghiệm. Dù là lời lẽ góc cạnh hay những khẩu ngữ đời thường gần gũi, hay  ngôn ngữ mang sắc thái nữ, thì ẩn sau những câu chữ vẫn luôn là tiếng lòng, là những dự cảm thân phận được viết ra từ sự dẫn dắt tuyệt diệu của mẫn cảm bản năng.
Giọng điệu độc thoại giãi bày tâm sự thường gặp ở đây mượn hình thức tự bạch. Hầu hết các truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ được viết dưới dạng người kể chuyện xưng tôi. Với hình thức này người kể chuyện tham gia vào câu chuyện như một nhân chứng, cũng là cách làm tăng độ tin cậy của bạn đọc đối với tác phẩm. Nhân vật xưng tôi tự kể chuyện mình, bộc bạch những nỗi niềm tâm sự, suy tư, cảm xúc của mình. Đứng ở điểm nhìn trần thuật này nhiều trường hợp giọng điệu tác giả và giọng điệu nhân vật hoà làm một.
Với người kể chuyện ở ngôi thứ nhất, các chuyện ngắn này bộc lộ xu hướng viết “như một nhu cầu trình bày những trải nghiệm của bản thân”. Người kể chuyện lúc này xoá đi khoảng cách trần thuật của mình để đối thoại với độc giả. Nhân vật tự kể về cuộc đời mình, tự bộc bạch nỗi lòng của mình. Cũng có đôi khi người đọc thấy dường như “Nhà văn tự đưa mình vào tác phẩm” bộc lộ nhu cầu giãi bày tâm sự qua nhân vật. Một số truyện của Nguyễn Thị Thu Huệ dù người kể ở ngôi thứ ba nhưng vẫn mượn giọng tự bạch.
Bằng độc thoại nội tâm, tác giả đã diễn đạt những giằng xé, dằn vặt của nhân vật trước biến cố cuộc đời, tạo nên giọng điệu thâm trầm sâu lắng. Trong các tác phẩm độc thoại nội tâm như là sự giải toả tâm trạng, nhân vật thường đặt câu hỏi cho chính bản thân mình: “Sao tôi thấy cô đơn và sợ cuộc sống thế này” (Mi nu xinh đẹp), thừa nhận với mình: “Tôi thấy trống trải và hụt hẫng” (Biển ấm), khẳng định cho chính mình: “Tôi tin rằng mình lại có tình yêu bởi vì tôi mất nó quá lâu rồi” (Cát đợi).
Nền tảng của giọng điệu là cảm hứng của nhà văn. Với sự chi phối của cảm hứng về cái bi, truyện của cây bút này mang giọng xót xa khinh bạc, đặc biệt là khi nhìn vào mặt trái của cuộc sống, vào những éo le khôn cùng của  những “lỉnh kỉnh, dở dang của cuộc sống”, những ảo tưởng tình yêu tan vỡ, trống trải và hụt hẫng sau những nỗ lực để bằng mọi giá có được người đàn ông của đời mình...
Giọng điệu này có trong nhiều truyện như: Người đàn bà ám khói, Hoàng hôn màu cỏ úa, Thiếu phụ chưa chồng, Một chiều mưa…
Nguyễn Thị Thu Huệ thường viết về cái nhìn đầy nghi kỵ, thậm chí là khinh bạc với giới đàn ông sống thực dụng. Đàn ông trong tác phẩm của chị thường là nhân vật gây ra những đau khổ cho nhiều phụ nữ đặc biệt là những cô gái trẻ ngây thơ và cả tin. Người đàn bà biết rõ nỗi cô đơn ngày càng thắt chặt, nên những dòng độc thoại nội tâm của họ được Nguyễn Thị Thu Huệ diễn đạt rất sâu sắc. Những nhân vật nữ trong truyện ngắn của  tác giả nữ này suốt cuộc đời không tìm thấy điểm tựa và họ chua chát khi nhận ra điều đó: “Chị hay khóc với tôi và cho rằng đàn ông thì cần thật nhưng tốt nhất là không nên có” (Hoàng hôn màu cỏ úa).
Ngôn ngữ độc thoại biểu thị sự xót xa khinh bạc của Nguyễn Thị Thu Huệ  tỏ rõ một sự đồng cảm sâu sắc. Ngôn ngữ độc thoại đó còn hài hước châm biếm thể hiện qua cách miêu tả hiện thực trong tâm tưởng mang sắc thái bi hài: Nguyễn Thị Thu Huệ xây dựng nên hình tượng người trí thức trong hoàn cảnh túng quẫn về kinh tế, thay vì nuôi dưỡng những ý tưởng khoa học, hằng ngày anh ta phải nuôi chó Nhật để mưu sinh. Cũng dưới ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Thị Thu Huệ, người đàn ông trong Hậu thiên đường thảm hại ở cả hai tư cách “làm chồng và làm người tình”…; những đấng nam nhi đại trượng phu trong con mắt những nhân vật của Nguyễn Thị Thu Huệ được phác họa là: “những anh chàng thương gia thì lạnh lùng, thô lỗ. Chàng Việt kiều thì ki bo, bủn xỉn. Nhà thơ thì yếu đuối, bệ rạc” với cái mặt: “méo mó, vẹo vọ như oản bẹp” (Tình yêu ơi ở đâu).
Có thể nói giọng điệu độc thoại châm biếm, hài hước đem đến cho cây bút nữ này một âm hưởng riêng trong các truyện ngắn phê phán. Những dòng độc thoại nội tâm của các nhân vật trong các tác phẩm thể hiện cái nhìn hiện thực mang tính dân chủ của người viết. Với thái độ không khoan nhượng những nghịch lý trớ trêu của cuộc đời, các trang viết của Nguyễn Thị Thu Huệ góp phần tái hiện bức tranh hiện thực nhiều chiều.
Quyết liệt khi miêu tả những dòng độc thoại nội tâm thể hiện những khát khao rất đàn bà nhưng cũng có khi giọng trữ tình độc thoại đằm thắm trở thành âm điệu chính trong tác phẩm của chị. Trong văn của Nguyễn Thị Thu Huệ thường có cái gì đó không thuần nhất, thậm chí đối chọi nhau chan chát, lúc bạo liệt táo tợn, lúc lại dịu dàng đến bất ngờ. Chao chát, dịu dàng ngây thơ và từng trải, đau đớn và tin tưởng cứ trộn lẫn trong tác phẩm của Nguyễn Thị Thu Huệ.
Giọng điệu trữ tình đằm thắm một mặt khơi sâu vào cảm xúc chủ quan của nhân vật, một mặt lại khơi gợi ở người đọc những khoảnh khắc rung động tâm hồn giữa dòng chảy hỗn độn của cuộc sống. Dù với tình cảm đậm nhạt khác nhau, sự tồn tại cả hai mặt đối lập này trong cùng một cây bút không phải là điều khó lý giải. Bản tính nữ và khát khao đấu tranh cho sự bình quyền, được lên tiếng trước những bất công trong đời sống, trước những thực trạng tinh thần của con người, đã tạo nên tính đa cực của ngòi bút. Đó là bằng chứng về sự đổi mới tư duy văn học và sự giải phóng ý thức cá nhân - một nhu cầu vừa mang tính nội tại vừa chịu ảnh hưởng của xu thế thời đại.
Từ ngôn ngữ độc thoại trong các tác phẩm của Nguyễn Thị Thu Huệ, tôi nhận thấy tư duy nội hướng là một đặc điểm định tính đã phần nào chi phối đến các phương thức diễn đạt góp phần vào sự phát triển, vận động của truyện ngắn Việt Nam.
Ngôn ngữ độc thoại là một phần quan trọng của tác phẩm văn chương. Cùng với ngôn ngữ đối thoại nó hoàn chỉnh tác phẩm ở góc độ ngôn ngữ. Qua việc khảo sát ngôn ngữ độc thoại trong tập “37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ”, tôi nhận thấy một lối tư duy mới, cách cảm, cách nghĩ mới mang đậm màu sắc nữ giới. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm trong các tác phẩm truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ góp phần tạo nên một giọng điệu mới trong giai đoạn văn chương hiện đại sau 1975 với những sự nhìn nhận đánh giá về một thế giới đa cực của hiện tại.

(Nguồn Văn nghệ

NHÌN ĐÂU CŨNG THẤY VẤN ĐỀ CỦA VĂN CHƯƠNG


02.09.2007 03:35
Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ
Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ
"Người đọc bây giờ đa dạng, thông minh và sòng phẳng. Không ai định hướng được họ. Vậy thì tôi đâu cần phải lo cho người viết - đồng nghiệp của tôi điều gì..." - Nguyễn Thị Thu Huệ.
PV: Trước hết chị quan niệm thế nào là cách tân trong văn học?
NGUYỄN THỊ THU HUỆ: Nhà văn nào khi đặt bút viết cũng muốn viết những tác phẩm đáng giá, với mình, người thân của mình và sau đó là với người đọc. Chuyện cách tân không phải bây giờ mới được quan tâm, mà từ thời xửa thời xưa, cũng là vấn đề rồi. Tôi biết, có nhiều nhà văn, cách tân với họ là kể một câu chuyện thật giản dị, nhưng lại mang ý nghĩa khái quát cao. Một số người khác, cách tân theo kiểu thể hiện tác phẩm của mình như không gian đa chiều, nhiều mặt… Mỗi người, quan niệm cách tân một khác.
Tôi thì hiểu một cách giản dị là: Cách tân - với tôi - là làm sao người ta đọc xong một tác phẩm (Ở nhiều thể loại như tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ) phải thấy thích (tính hấp dẫn) trong lúc đọc. Đọc xong, nhớ được một nhân vật, hay nhớ nguyên một cốt truyện, hoặc nhớ một chi tiết… Tóm lại, cách tân là cách mà nhà văn với tác phẩm của mình đến được với người đọc. Còn cách tân kiểu gì, là tùy vào quan niệm và tài năng của người viết đó.
Nói hơi ngoài lề một chút, là tôi rất thích thơ của những nhà văn, những câu thơ giản dị, nhưng ám ảnh, có vẻ không quan tâm tới cách tân như thơ của nhà văn Nguyễn Bình Phương, Phan Thị Vàng Anh hay Nguyễn Thế Hoàng Linh. Đây là ý thích của riêng tôi. Còn những người khác, thích thơ của những nhà thơ khác… Điều đó cho thấy, cách tân hay không, với riêng tôi, không quan trọng bằng việc khi mình tiếp cận với một tác phẩm, mình thích là được. Không quan trọng tới việc là người đó đang cách tân hay không.
PV: Trong xu hướng cuộc sống hiện nay, các nhà văn lao vào vấn đề xã hội nhiều, và dường như những chi tiết ấy thích hợp hơn với thể loại bút ký, phóng sự. Làm thế nào để người viết chọn lọc được những chi tiết của văn học ?
NGUYỄN THỊ THU HUỆ: Tôi nhìn đâu cũng thấy vấn đề của văn chương. Mỗi tuổi, nhìn mỗi sự vật hiện tượng bằng một cái nhìn khác, một sự suy luận khác. Văn là đời. Kể cả những tiểu thuyết khoa học viễn tưởng cũng bắt đầu từ cuộc sống, nhưng được thể hiện theo cách riêng. Bút kí, phóng sự là chuyện thật, người thật, cũng là những gợi ý rất cần cho nhà văn. Tôi thấy, với một nhà văn có tài, và chuyên nghiệp, thì điều gì xảy ra xung quanh, họ cũng biết cách để đưa vào tác phẩm của mình. Tôi đặc biệt thích Murakami, và thấy ở con người này ngoài chuyện đó là một nhà văn có tài, chuyên nghiệp, ông còn là một người dấn cái đời mình tới cùng với những điều mình thích (từ cách sống cho tới cách trở thành một nhà văn lớn). Cách nhìn nhận thực tế, qua những chiêm nghiệm riêng, làm thành tác phẩm. Rất gần đời sống nhưng lại không những không tầm thường hóa văn chương,mà mỗi tác phẩm đều mang những triết lý riêng, sâu sắc.
PV: Nhân nói về việc chọn lựa chi tiết thì có một điều chúng ta cần phải bàn là sự trường hơi trong sáng tác của các nhà văn. Rất nhiều tác giả xuất hiện rất rực rỡ và tắt ngay. Một phần có phải vì họ thường chỉ diễn đạt qua kinh nghiệm của cuộc sống hàng ngày, với những chuyện có ít nội dung, và những vấn đề nhỏ nhặt mà ít nghĩ đến thân phận con người, với những điều lớn lao. Điều đó mới nghe thì thấy thuận, hợp lý nhưng ngẫm kỹ rõ ràng rằng nếu một nhà văn có tài, một nhà văn “tinh” thì có thể từ một câu chuyện của một người, của một cá nhân họ có thể khai thác và viết nên tính cách của một dân tộc. Như vậy chi tiết đã trở thành linh hồn của một tác phẩm văn học. Chị suy nghĩ gì về vấn đề này?
NGUYỄN THỊ THU HUỆ: Câu hỏi của chị cũng có thế coi là câu trả lời luôn rồi. Nhưng tôi thì thấy khác. Tôi không bao giờ nghĩ to tát chuyện có nhà văn bừng sáng lên bằng một vài truyện ngắn hay cuốn tiểu thuyết, mấy bài thơ rồi tắt vì điều này điều nọ… Cuộc sống thời nào cũng ngồn ngộn chất liệu, một chuyện “nhỏ xíu” như người ta đánh bạc cả triệu đô rồi bị bắt, rồi bị xử theo tội đánh bạc nhưng không ai hỏi là người đấy lấy tiền đâu mà đánh bạc, truy nguồn gốc xuất xứ thu nhập… cho đến những chuyện lớn lao hơn như cây cầu Văn Thánh suốt ngày sửa… bằng nhiều nghìn tỉ… Nếu gọi để cần có những tác phẩm đề đời, tôi thấy chất liệu thời nào cũng nhiều. Thời chiến tranh có chất liệu thời chiến tranh. Thời bình có chất liệu thời bình. Murakami viết "Biên niên kí chim vặn dây cót" có chương về thời chiến, nhiều chương về thời bình, sao hấp dẫn và đa chiều tư tưởng đến thế? Mỗi một lần đọc, là một lần hiểu tác phẩm một khác? Chắc chắn khi Murakami viết, ông không hằm hằm hạ quyết tâm là phải viết cho ra một tác phẩm kiệt xuất hay phải thấm đẫm tinh thần dân tộc. Ông sống tới cùng, viết tới cùng, và được đón nhận ở khắp thế giới. Vậy thì, cái gì làm ra một tác phẩm lớn? Tôi thấy, duy nhất, để có một tác phẩm lớn, chỉ cần một điều. Là có nhà văn lớn. Vậy thôi. Khi có một nhà văn lớn, với vốn hiểu biết về vấn đề họ định viết như lịch sử, chiến tranh, môi trường, hay thế giới động vật… cộng thêm một cái nền căn bản là sự suy luận mọi chuyện qua đời sống chính cá nhân họ, những thăng trầm, được mất… họ cũng tự biết sẽ lấy gì, bỏ gì, tưởng tượng ra những gì từ hiện thực cuộc sống…
PV: Và tôi thấy rằng chính bạn đọc trong cách thưởng thức văn hóa của mình cũng có cách lựa chọn chi tiết riêng. Nếu người nào thích thể loại thông tấn, họ sẽ chọn những tác phẩm ngắn, nhiều sự kiện, dễ đọc, mất ít thời gian hơn là đọc những câu văn khi thì dài quá, khi lại ngắn quá, khó đọc, tốn thời gian. Chị có lo sợ khi văn chương đang đứng trước những thử thách của nhiều bạn đọc như vậy không?
NGUYỄN THỊ THU HUỆ: Tôi không sợ vì tôi tin là nếu có những tác phẩm văn học hấp dẫn, hay (bất kể ở thể loại nào) thì người đọc sẽ đón nhận. Nếu nhà văn mà sợ những trào lưu mới của công nghệ thông tin như vậy, chắc không ai muốn viết tiểu thuyết nữa. Tôi thì thấy ngược lại. Công nghệ thông tin càng phát triển, thế giới càng phẳng, thì nhà văn càng có cơ hội viết ra những tác phẩm lớn. Ít ra, là nhà văn thời này sướng hơn các thế hệ nhà văn trước là luôn được cập nhật thông tin, và khi viết về một vấn đề gì, có thể tìm hiểu khá rõ và tương đối chính xác về vấn đề đó, chứ không thiếu và đói thông tin như ngày trước. Quanh đi quanh lại, chỉ là vấn đề. Đấy là, nhà văn có ngồi vào bàn, một mình, và viết hay không.
PV: Ngay cả bản thân người sáng tác như chị, khi văn học đòi hỏi nhiều thời gian hơn để suy nghĩ, để trằn trọc trước con chữ thì chị cũng lại dành cho nó ít thời gian, mà lại ưu ái hơn với điện ảnh. Điều đó chắc không phải là niềm đam mê văn chương đã không còn nhiều?
NGUYỄN THỊ THU HUỆ: Đam mê thì luôn có, nhưng viết là một thử thách. Có lúc, viết được những điều mình muốn viết, mà đọc thấy cũng được. Có lúc, viết được những điều mình muốn viết, nhưng đọc chưa thấy được, thế là cất kho. Giản dị thôi mà chị, nhà văn là tác phẩm, mình yêu thương nó, trân trọng nó, thì mình sẽ được nó yêu thương và trân trọng lại. Tôi không thấy vội lắm, khi chưa thật thích chính những dòng của mình viết ra, thì chưa công bố thôi. Còn điện ảnh, cũng là một thứ tôi yêu thích, sau văn chương. Nhưng không phải vì yêu cái này mà bỏ cái kia. Dạo này, tôi thích viết tản văn. Có lẽ, ý thức công dân đang trỗi dậy quá mạnh (cười) trước những “thói hư tật xấu” và những điều đẹp đẽ mất dần đi của xã hội, nên quay sang viết tản văn, tạp bút cho bớt “bức xúc”. Nhưng văn chương là tri ân tri kỉ, không bao giờ bỏ nhau hết.
PV: Có ý kiến “Sau 20 năm, bước đầu giới nghiên cứu đã có sự đánh giá thành tựu văn học đổi mới, nhưng nói chung nó chưa nhiều và chưa định hình, các giá trị văn học cũng chưa rõ ràng. Nếu nói văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới đang ở đâu thì rất khó, có lẽ nên nói chúng ta đã bằng lòng hay chưa mà thôi. Tất nhiên chưa thể bằng lòng được”. Sự thực là chúng ta đã đạt được những thành tựu rất lớn trong văn học, văn học hoàn toàn mở cửa, và nhà văn được tự do sáng tạo, từng vận hội của đất nước đều được văn học phản ánh. Và các giá trị văn học đã được bạn đọc, nhà phê bình định giá. Ý kiến của chị như thế nào?
NGUYỄN THỊ THU HUỆ: Cũng không cần phải lo lắng nhiều về chuyện này. Vì tôi thấy những nhà văn chuyên nghiệp và một số bạn viết mới đang ngày đêm viết. Tôi không quan tâm lắm chuyện tác phẩm khi ra đời là thế nào mà quan tâm chuyện các nhà văn vẫn đang viết, vì nghề viết là sự sáng tạo cá nhân, âm thầm. Điều đó cho thấy nền văn học Việt Nam đang phát triển, và hứa hẹn sẽ có tác phẩm lớn. Riêng tôi, văn học Việt Nam thời nào cũng có những tác phẩm giá trị. Thước đo những giá trị đó nằm ở mỗi cá nhân người đọc, chứ không phải xã hội hay một tổ chức nào đó quyết định.
PV: Khi chị đọc các sáng tác của các bạn viết trẻ hiện nay, điều chị vui mừng nhất là gì, và điều chị lo âu nhất là gì?
NGUYỄN THỊ THU HUỆ: Tôi có lẽ là người chăm mua sách và hào hứng đọc sách của các cây viết mới (Không hẳn trẻ tuổi, nhưng mới xuất hiện) không giống như một số người chỉ đọc tác phẩm của những nhà văn tên tuổi, hay sách dịch mà biết chắc đó là sách hay. Tôi thì đọc tất. Trên báo, trên những tuyển tập… Đơn giản là, mình hãy mua sách của mọi người, âm thầm làm một độc giả của những người viết ngày càng hiếm của văn chuơng. Tôi vui, vì cứ vài ngày ra hiệu sách, là thấy có sách mới. Hay, dở, chưa biết, nhưng biết ngay là có thêm người viết mới, hoặc một bạn văn có sách mới. Còn lo âu, tôi không lo âu gì với bất cứ ai mới viết hoặc vẫn viết, vì cứ viết được là tốt. Lo là lo người viết và yêu việc viết ít đi thôi. Riêng về chất lượng mỗi tác phẩm, tôi không bao giờ lo cho người viết, vì độc giả mỗi người một gu thẩm mĩ, một quan niệm. Không thể lấy tư tưởng, ý thích của người này áp đặt cho người khác. Vậy thì với người viết, cứ viết những gì họ tâm đắc, viết tới tận cùng con người họ. Còn được bạn đọc yêu quý hay ghét bỏ, là chuyện khác… Người đọc bây giờ đa dạng, thông minh và sòng phẳng. Không ai định hướng được họ. Vậy thì tôi đâu cần phải lo cho người viết - đồng nghiệp của tôi điều gì. ..

THU HUYỀN (Theo báo Văn Nghệ Trẻ)

Thứ Ba, 26 tháng 3, 2013

TRẢ LỜI ĐỘC GIÁ VNEXPRESS


Hàng trăm câu hỏi đã gửi đến, trong đó có những độc giả chỉ đơn giản là bày tỏ lòng ngưỡng mộ hoặc hỏi thăm về cuộc sống riêng của nhà văn. Tuy nhiên, do quá bận duyệt kịch bản phim và bị cuốn hút bởi sự kiện World Cup, đặc biệt là trận đấu giữa Brazil - Anh hôm thứ sáu, Thu Huệ chỉ kịp trả lời một số câu hỏi mà chị tâm đắc nhất.
Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ.
Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ.
- Hạnh phúc của một nhà văn, theo chị là gì? (Hoang John)
- Với tôi, điều hạnh phúc nhất là khi mình viết ra một tác phẩm và nó đến được với người đọc, rồi được chấp nhận.
- Chị được coi là một phụ nữ có tất cả: sắc đẹp, thông minh, thành đạt trong sự nghiệp... vậy bản thân chị có thấy mình còn thiếu thứ gì không? (Nguyen Chau Anh)
- Tôi cảm thấy mình còn thiếu nhiều thứ lắm, ví như ngoại ngữ, vi tính. Một anh bạn nhà văn nói với tôi rằng, thế kỷ 21 mà không biết hai thứ này thì coi như mù chữ, vậy mà tôi thiếu đúng hai thứ ấy.
- Nếu có một điều ước cho riêng mình, chị sẽ ước gì?(Le Thu)
- Có một cuộc sống bình yên và nhiều nghị lực để vượt qua những khó khăn trong cuộc sống, làm chỗ dựa cho người thân.
- Lúc nào thì chị cảm thấy cô đơn? (Hoang John)
- Khi tôi không làm được một điều gì đó hoặc không làm cách nào để giúp đỡ một người gặp khó khăn, tôi cảm thấy bất lực và cô đơn kinh khủng.  
- Những cô gái trẻ Việt Nam bây giờ cần phải làm những gì để vừa làm tròn bổn phận trong gia đình, vừa làm tốt công tác xã hội? (Linh Trang) 
- Các bạn cần phải tranh thủ óc sáng tạo của tuổi trẻ để học, khám phá và tìm hiểu cuộc sống. Tôi cho rằng điều gì cũng có thể làm được. Điều khác nữa là chúng ta phải chấp nhận và đối mặt với khó khăn trong cuộc sống, bởi sẽ không ai cứu được mình bằng chính bản thân mình. Tóm lại, để vừa làm tốt công việc ngoài xã hội, vừa làm tròn bổn phận gia đình, các bạn hãy yêu cuộc sống mà cha mẹ đã ban tặng và hãy sống tận cùng với nó.
- Động lực nào thúc đẩy chị viết được nhiều tác phẩm hay? (Thao Huynh)
- Tôi luôn cảm nhận cuộc sống từ bề chìm của nó, tức là luôn khám phá đằng sau mỗi con người, mỗi số phận cuộc sống nội tâm của họ. Trong khi tìm tòi, tôi chỉ có một cách chia sẻ duy nhất là viết, bởi văn chương đối với tôi là người bạn chung thuỷ có thể chia sẻ với mình nhiều điều.
- Tôi đã đọc các truyện "Mùa đông ấm áp", "Hậu thiên đường", "Nước mắt đàn ông"... và rất hâm mộ chị. Theo chị, muốn làm nhà văn có cần năng khiếu không? (Thao Huynh)
- Tôi cho rằng làm bất cứ nghề gì cũng cần phải có tài, dù là ít. Riêng với những người làm nghệ thuật thì yếu tố tài năng rất cần thiết. Bên cạnh đó một thứ bắt buộc phải có là kiến thức trang bị về nghề nghiệp của mình. Tuy nhiên, có tài mà không có học thì đến một lúc nào đó cũng sẽ hết tài, hoặc những sản phẩm tinh thần của họ sẽ chỉ là sự lấp lánh của bản năng mà thôi. Tài năng cần được nuôi dưỡng bởi kiến thức học hỏi và kinh nghiệm cuộc sống.
- Chị nghĩ thế nào về hiện tượng văn học Việt Nam hiện nay: quá nhiều truyện ngắn, hơi ít tiểu thuyết và truyện vừa. Nội dung và thủ pháp của các truyện ngắn nghèo nàn. Phải chăng các nhà văn hiện nay không sống hết mình với nghiệp văn chương?( pcnguyen) 
- Ý kiến này chỉ đúng một phần, các nhà văn lớn tuổi vẫn đang ấp ủ những tiểu thuyết dài, có thể họ sẽ in hoặc chỉ viết cho bản thân mà không công bố. Trường lực viết của các nhà văn lớn tuổi rất dồi dào nhưng vẫn bị hạn chế vì họ không có điều kiện sức khỏe và vật chất tốt để yên tâm viết và viết. Còn đối với thế hệ các nhà văn trẻ, vốn thực tế cuộc sống xã hội không nhiều, công việc hàng ngày bận rộn nên truyện ngắn lúc này là hợp với họ. Tôi không cho rằng các nhà văn hiện nay không sống hết mình với nghiệp văn chương, bởi vì đã là người cầm bút ai cũng muốn hết mình, chỉ có điều bạn đọc cảm nhận đến đâu trong xã hội phát triển mạnh như hiện nay, khi mà con người được tiếp cận với nhiều phương tiện hiện đại thì văn hóa đọc cũng phần nào bị giảm đi. Theo tôi, đó là nguyên nhân mà người đọc bây giờ không hào hứng lắm với những tiểu thuyết dày như ngày xưa.
- Dường như trong những truyện của chị không có bóng dáng của sự yêu thương trong gia đình? (Tran Thu Thuy)
- Có bóng dáng yêu thương trong gia đình của tôi đấy chứ! Như truyện ngắn Biển ấm chẳng hạn, trong đó nếu không có lòng yêu thương thì nhân vật chính sẽ không biết đi đâu, về đâu. Còn rất nhiều truyện khác của tôi cũng nói về tình yêu, lòng vị tha, bởi ai cũng cần có tình yêu thì mới làm được mọi việc.
- Dường như chị dị ứng với những người đàn ông ăn xôi hoặc phở xào (trong truyện "Hậu thiên đường"). Theo chị, một người đàn ông thanh lịch nên ăn bún? (Trọng Dũng)
- Không thể đánh giá qua việc người ta ăn xôi, ăn phở hay bún, có thể họ ăn cơm nguội cũng được, nhưng đó là bằng tiền do chính họ làm ra chứ không phải đi ăn ké của người khác, nhất là phụ nữ..
- Người ta thường nói "hồng nhan bạc mệnh" và "chữ tài gắn với chữ tai một vần". Là người có cả tài lẫn sắc, chị nghĩ thế nào về quan niệm trên? (T.Hang)
- Tôi cho rằng hai quan niệm trên không hẳn đúng như vậy. Có lẽ những phụ nữ đẹp khi gặp khó khăn thường bị chú ý hơn người bình thường. Bởi vậy, người ta hay gán rằng là đó là hồng nhan bạc mệnh. Trên thực tế, có rất nhiều người đẹp thành đạt cả trong sự nghiệp lẫn hôn nhân.
- Chị có thích bóng đá không và thích đội nào nhất? (Tran Le Huyen Thoai)
- Bóng đá cũng là niềm đam mê lớn đối với tôi. Những đội bóng nào bộc lộ tài năng, chơi đẹp và không tính toán luôn làm tôi ngưỡng mộ. Trước đây, tôi mê Italy nhưng ở World Cup lần này họ hơi nhu nhược. Trước đây, tôi cũng mê Pháp nhưng bây giờ thì thất vọng hoàn toàn, hình như họ mải tận hưởng vinh quang mà quên mất cần phải giữ nó như thế nào. Bây giờ thì tôi ủng hộ Brazil và Mỹ. Trong trận Brazil - Anh, ở 5 phút cuối, tôi đã chui vào gầm bàn để nghe đồng nghiệp bình luận mà không dám xem vì sợ đội bóng mà mình yêu mến sẽ thua.

NHÀ VĂN CỦA NỒNG ẤM TÌNH YÊU


QĐND - Là một gương mặt tiêu biểu của văn xuôi nữ sau Đổi mới, Nguyễn Thị Thu Huệ ngay từ những truyện ngắn đầu tiên đã nhanh chóng xác lập được vị trí của mình trên văn đàn. Không thuộc số những nhà văn viết khỏe, Thu Huệ chỉ viết khi câu chuyện đã đầy ắp trong tim óc cần hiện diện ra thành câu chữ. Vì thế, hơn hai mươi năm cầm bút, số lượng truyện ngắn chị viết không thật nhiều. Chúng được tập hợp trong sáu tập: Cát đợi (1992), Hậu thiên đường (1993), Phù thủy (1995), Nào ta cùng lãng quên (2003), 37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ (2010) và gần đây nhất là Thành phố đi vắng (2012). Chị cũng là nữ nhà văn đã tạo dựng được phong cách riêng và đặc biệt có duyên với các giải thưởng: Giải nhất cuộc thi sáng tác về Hà Nội, Giải nhất cuộc thi Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Tặng thưởng Hội nhà văn với tác phẩm Hậu thiên đường.
Bước vào thế giới truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ là bước vào lãnh địa rất riêng tư của phụ nữ. Ở đó, tác giả xây dựng bức tranh đời sống nhiều màu vẻ nhưng mối quan tâm lớn nhất, trở thành tâm điểm hút xoáy những vấn đề khác chính là phụ nữ, những vấn đề xoay quanh số phận người phụ nữ. Rất hiếm khi nam giới trở thành nhân vật chính trong truyện ngắn của chị (Những đêm thắp sáng, Nước mắt đàn ông, Minu xinh đẹp là những ngoại lệ hiếm). Quan tâm đến phụ nữ, Thu Huệ nhận ra: Trong xã hội hiện đại, nỗi ám ảnh phái yếu không phải là tiền tài, danh vọng, không phải là bổn phận và trách nhiệm, càng không phải những giá trị đạo đức mà xã hội mặc nhiên khoác lên vai họ. Nỗi ám ảnh đau đáu, duy nhất chính là tình yêu. Những nhân vật phụ nữ của Thu Huệ dù già hay trẻ, dù đã yên ấm gia đình hay đang đổ vỡ, dù thiếu nữ hay thiếu phụ đều có một điểm chung nhất, đó là những tâm hồn khát yêu, luôn luôn tất tả trên hành trình khám phá, kiếm tìm tình yêu, dâng hiến, hy sinh  cho tình yêu đến kiệt cùng tuổi trẻ và hạnh phúc. Đó là cô bé mười sáu tuổi, chập chững trên đường kiếm tìm hạnh phúc, chập chững nhưng đầy “liều mạng”, mê đắm trong thiên đường với người đàn ông hay văng tục, người có mùi khai của nước đái trẻ con (Hậu thiên đường), đó là cô gái mới lớn “to gan”, bỏ nhà vượt mấy trăm cây số đến với người đàn ông hơn mình mười hai tuổi vừa bỏ vợ (Biển ấm)… Điều thú vị là nhà văn phát hiện ra không chỉ những người phụ nữ tỉnh táo mới đắm đuối vì yêu mà những người dở tỉnh dở mê, dở âm dở dương cũng lạc lối trong vườn yêu muôn nẻo (Cõi mê; Nào, ta cùng lãng quên).
Đi sâu vào thế giới phụ nữ, truyện ngắn Thu Huệ còn là những phát hiện về tổ ấm thời hiện đại. Bằng sự tinh tế, bén nhạy của trái tim phụ nữ đa cảm, chị nhanh chóng nhận thấy những vết rạn trong tế bào xã hội. Không đề cập tới những sóng gió và biến cố nhưng truyện ngắn nào cũng mở ra hình ảnh một tổ ấm không vẹn nguyên. Những gia đình tan vỡ, những ông bố, bà mẹ ngoại tình, những người mẹ đơn thân, những đứa trẻ bơ vơ, cô đơn và cô độc. Mỗi gia đình nhỏ như con thuyền tròng trành trong bão, có thể lật úp, có thể rạn vỡ, có thể tan tác mà rất ít khả năng giữ được nguyên lành. Đó có phải là hệ quả tất yếu của xã hội hiện đại ngày càng đầy lên những giá trị vật chất mà nghèo nàn, thảm hại những giá trị tinh thần. Hay phải chăng, nó phản ánh sự đổ vỡ không cách nào cứu vãn trong tâm hồn những người giữ lửa. Khi người mang trọng trách giữ lửa (người mẹ, người vợ) trong mỗi gia đình nhận ra mình không có lửa, không còn lửa hoặc ngọn lửa mình đang nắm giữ chỉ là ảo ảnh, họ không tiếp tục cam chịu  giữ gìn biên giới của gia đình truyền thống mà lao vào cuộc kiếm tìm hơi ấm cho riêng mình. Tổ ấm biến thành tổ lạnh. Những nếp nhà hiện đại hoang vu trong ồn ã tiếng người. Đáng giận, đáng thương hay đáng trách? Thu Huệ không trả lời. Mỗi truyện ngắn là một vết cứa sắc vào lòng độc giả, đầy gợi mở suy tư về thân phận con người, đặc biệt là phụ nữ.
Viết về phụ nữ hiện đại với những vấn đề đương đại nhưng Nguyễn Thị Thu Huệ sử dụng lối viết khá truyền thống. Phần lớn truyện ngắn của chị có kết cấu chặt chẽ, lô-gích, có thể xáo trộn về thời gian, không gian nhưng vẫn dễ dàng tìm ra trật tự tuyến tính của cốt truyện. Tính cách nhân vật khá nhất quán, số phận nhân vật thường đặt trong mối quan hệ nhân quả, có thể đoán biết trước. Sự hấp dẫn của truyện ngắn Thu Huệ nằm ở lối viết đằm thắm, nồng nàn hơi ấm nữ tính. Mỗi truyện như một lời tâm tình, chia sẻ hướng tới những tri âm. Sôi nổi, nồng nàn, nồng nàn ngay cả trong hoàn cảnh cay đắng và chua chát nhất là giọng điệu chính chi phối sáng tác Nguyễn Thị Thu Huệ. Giọng điệu ấy khiến truyện ngắn của chị dù đề cập đến nhiều đổ vỡ, mất mát nhưng vẫn là sợi dây neo đậu niềm tin vào hạnh phúc và tình yêu.
 Năm 2012, Thu Huệ “trở lại” văn đàn với tập truyện ngắn Thành phố đi vắng. Tác phẩm ghi dấu những đổi thay rõ nét trong đề tài và lối viết của chị. Ở tập truyện mới nhất này, Thu Huệ quan tâm nhiều đến vấn đề đô thị hiện đại. Thay vì kiếm tìm tình yêu, tập truyện là những ưu tư về tình người ngày một cạn kiệt thậm chí biến mất trong đô thành hiện đại. Tình người băng giá, sự vô cảm, nỗi bất an và cái chết trở thành những ám ảnh trong đời sống đương đại. Lối viết khách quan, trung tính, tiết chế cảm xúc tối đa, mỗi truyện ngắn trong tập sách mới như một bản tường thuật đời sống. Ở đó nhà văn chỉ làm nhiệm vụ duy nhất là tường thuật trung thành, không tham dự, không mách bảo người đọc.
Hơn hai mươi năm cầm bút, Nguyễn Thị Thu Huệ luôn là cây bút nữ không (chưa) mệt mỏi trên hành trình sáng tạo.
Thạc sĩ NGUYÊN HƯƠNG